Những điểm mới trong luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
08/12/2015Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (có hiệu lực ngày 01/01/2015) đã có một số điểm mới nổi bật so với luật Hôn nhân và gia đình năm 2010 như sau:
Về độ tuổi kết hôn
Theo Khoản 1, Điều 8 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về độ tuổi kết hôn như sau: Nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổi thay vì vừa bước sang tuổi 18 (17 tuổi + 1 ngày) như quy định tại Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Như vậy, Luật mới quy định tuổi kết hôn đối với nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên và với nam là từ đủ 20 tuổi trở lên.
Chính thức cho phép mang thai hộ
Điều 94 đến Điều 100 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Tuy nhiên phải đáp ứng được những điều kiện sau:
Phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản;
Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện: có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, vợ chồng đang không có con chung, đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý;
Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện: là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ, đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng khi kết hôn
Điều 47, 48, 49, 50 và 59 quy định chế độ tài sản vợ chồng không chỉ theo luật định mà còn theo thỏa thuận. Việc thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm: tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản; nội dung khác có liên quan. Thỏa thuận này vẫn có thể được thay đổi sau khi kết hôn.
Ngoài ra, Luật hôn nhân và gia đình 2014 còn quy định cụ thể cách giải quyết về con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng các bên khi nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; không tính thời gian chung sống như vợ chồng trước khi đăng ký kết hôn vào thời kỳ hôn nhân.
Không cấm kết hôn đồng giới
Luật hôn nhân và gia đình năm 2010 cấm kết hôn đồng giới và nếu vi phạm sẽ có chế tài, xử phạt. Nhưng từ ngày 01/01/2015 đã bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” nhưng vẫn “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính - Khoản 2 Điều 8”. Đây cũng được coi là một bước tiến nhỏ trong việc nhìn nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta trong tình hình xã hội hiện nay.
Thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết kết hôn
Theo Điều 51, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu giải quyết thủ tục ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Nếu bạn có bất cứ thắc mắc nào về luật hôn nhân gia đình cần tư vấn pháp luật, hay cần giải quyết các vấn đề về vụ án ly hôn thì hãy liên hệ với văn phòng luật sư chúng tôi. Bạn có thể liên hệ qua email, điện thoại hoặc đến trực tiếp để được chúng tôi tư vấn chi tiết, cụ thể nhất.