Luật về mua bán doanh nghiệp từ góc nhìn quản trị công ty (Phần 2)
23/06/2016Ở phần trước về vấn đề mua bán và sáp nhập công ty, ta đã được tìm hiểu về đối tượng mua bán cũng như cơ sở pháp lý trong 4 đạo luật, bao gồm: Luật Đầu tư 2005, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Chứng khoán 2006, Luật Cạnh tranh 2004, cơ sở chung cho tự do khế ước trong Bộ luật Dân sự 2005. Ở phần nay ta sẽ đi sâu hơn về các vấn đề nội tại của công ty.
Quan tâm của quản trị công ty
Mua bán doanh nghiệp, công ty trở thành một mối quan tâm đáng kể trong quản trị công ty, nhất là khi thông tin về vụ mua bán bị rò rỉ ra bên ngoài, có thể ảnh hưởng rất trái chiều tới tâm lý các cổ đông và tâm lý những người lãnh đạo trong công ty. Được thiết kế dưới nhiều hình thức, mua bán công ty có thể diễn ra với việc phát hành cổ phần mới, ưu tiên bán cho các cổ đông chiến lược, tăng vốn điều lệ, ký kết các liên minh chiến lược, sáp nhập, trở thành hệ thống đại lý phân phối hay bao tiêu. Về bản chất, mua công ty là giành lấy quyền kiểm soát quản lý nội bộ trong công ty mục tiêu, dù hình thức kiểm soát có thể rất khác nhau. Nếu mục đích thôn tính công ty có dấu hiệu thù địch, ví dụ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh, chủ ý tạo thông tin giả để ép giá trong thương thảo…thì thương vụ mua bán công ty cần được quan tâm hơn bởi các quy định của Luật Cạnh tranh và Luật Chứng khoán.
Bảo vệ cổ đông
Nguyên tắc đáng lưu tâm nhất trong quản trị công ty đó là quyền cơ bản của các cổ đông - nhất là các cổ đông phổ thông nhỏ phải được đảm bảo. Những quyền ấy, về cơ bản bao gồm: quyền được có thông tin đủ, đúng, kịp thời, quyền được tự do chuyển nhượng cổ phần mà không bị làm khó dễ bởi thủ tục chuyển nhượng và đăng ký cổ phiếu, quyền được dự phần mua cổ phiếu phát hành thêm tương ứng với tỷ lệ cổ phiếu đang nắm giữ với những điều kiện thương mại bình đẳng trong cùng loại cổ phần, quyền được dự họp hoặc uỷ quyền dự họp các đại hội cổ đông, quyền yêu cầu sử dụng các công cụ giám sát, thậm chí khởi kiện các lãnh đạo công ty nếu những người này có dấu hiệu vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty. Trong các vụ mua bán công ty thông qua phát hành thêm cổ phần, cần lưu ý giá và các điều kiện thương mại khi phát hành thêm cổ phần cần được bình đẳng trong cùng loại cổ phần. Thêm nữa, các quy định về công bố thông tin về chuyển nhượng cổ phần theo Luật Chứng khoán 2006 phải được tuân thủ. Đây là điểm rất then chốt, bởi thiếu thông tin kịp thời thì năng lực phản ứng của các cổ đông nhỏ hầu như rất thấp. Quyền được “bỏ phiếu bằng chân” - tức là rút khỏi công ty - của các cổ đông nhỏ hầu như khó thực hiện nếu các thiết chế giám sát thông tin không hoạt động hiệu quả.
Hội đồng quản trị có đủ quyền và có trách nhiệm
Nguyên tắc lớn thứ hai trong quản trị công ty là ban lãnh đạo, chủ yếu bao gồm các thành viên hội đồng quản trị (HĐQT), phải có đủ quyền và hành xử một cách có trách nhiệm đối với công ty. Điều ấy có nghĩa rằng đại hội cổ đông chỉ nên là những người bỏ tiền đầu tư, việc sử dụng tiền ấy như thế nào nên dành phần lớn cho HĐQT đề xuất hoặc quyết định. Trong mua bán công ty, điều này liên quan đến việc giữ bí mật tình hình thương thảo với các đối tác là công ty mục tiêu. Hội đồng làm việc theo nguyên tắc mỗi người một phiếu, phe thiểu số có thể cản trở đa số (chỉ cần 2/5 người chống lại là các nghị quyết của HĐQT không thể thông qua). Cũng như vậy, các thành viên ban kiểm soát đều có thể được tham dự các phiên họp của HĐQT, đều có quyền nhận tài liệu và phát biểu - họ chỉ không có quyền biểu quyết.
Văn phòng luật sư – The Light nhận định: Nếu các thương vụ mua bán doanh nghiệp được đưa ra bàn luận ở HĐQT thì nguy cơ rò rỉ thông tin chắc là rất lớn; nếu ảnh hưởng của thương vụ đó tới các nhóm cổ đông khác nhau, thậm chí đối kháng nhau, thì tâm lý tranh chấp về quyền lợi giữa các nhóm cổ đông có thể làm cho những phiên họp của HĐQT hoặc đại hội cổ đông trở nên căng thẳng. Những điều này về lâu dài chưa hẳn đã có lợi cho công ty và các cổ đông.
Bạn đọc tìm hiểu thêm:
> Phần 1
> Phần 3