Các điều chỉnh của pháp luật về luật doanh nghiệp trong mua bán và sáp nhập doanh nghiệp

07/12/2015  

Với vai trò tổ chức và thiết lập mô hình hoạt động cho các loại hình doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến sáp nhập, hợp nhất và mua lại doanh nghiệp.

Các quy định trong Luật Doanh nghiệp có thể được sử dụng làm căn cứ pháp lý để làm rõ khái niệm và phạm vi của các hoạt động tập trung kinh tế. Chẳng hạn để xác định khái niệm mua bán doanh nghiệp, khi thực thi cơ quan QLCT có thể dẫn chiếu tới Luật Doanh nghiệp. Pháp luật cạnh tranh xác định hai trường hợp tạo nên quyền kiểm soát, chi phối doanh nghiệp khác (Điều 34 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP như đã trình bày ở phần trước). Tuy nhiên, để xác định như thế nào là đủ chi phối các chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm soát thì lại cần dẫn chiếu đến những quy định tương ứng về việc quyết định những chính sách tài chính, kinh doanh trong pháp luật về doanh nghiệp. Tùy theo từng hình thức tổ chức doanh nghiệp mà mức vốn đủ để chi phối các vấn đề tài chính, kinh doanh của doanh nghiệp là khác nhau. Như vậy, pháp luật về doanh nghiệp có vai trò làm rõ hơn những vấn đề mà luật Cạnh tranh chưa quy định chi tiết về các hành vi sáp nhập, hợp nhất và mua lại.

Các quy định liên quan đến thủ tục đăng ký kinh doanh, tổ chức lại doanh nghiệp, chuyển nhượng vốn góp, mua bán cổ phần trong pháp luật về doanh nghiệp.

Điều 44 quy định: trừ trường hợp thành viên sử dụng phần vốn góp để trả nợ, thành viên CT TNHH hai thành viên trở lên có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác như sau: (i) Phải chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện; (ii) Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày chào bán.

Với nhiệm vụ bảo đảm quyền tự do kinh doanh và thiết lập trật tự trong việc thực hiện quyền kinh doanh, các chế định nói trên bảo đảm quyền quản lý của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh trên thị trường. Quan hệ giữa các thủ tục đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp được xác định như sau:

  • Nếu việc sáp nhập, hợp nhất và mua lại thuộc nhóm không chịu sự kiểm soát của Luật cạnh tranh thì chỉ phải làm các thủ tục về đăng ký kinh doanh, chuyển nhượng vốn, mua bán cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp mà không phải thực hiện bất cứ thủ tục gì tại cơ quan QLCT.
  • Nếu việc sáp nhập, hợp nhất và mua lại thuộc nhóm phải thông báo (công ty hợp nhất, công ty nhận sáp nhập có thị phần từ 300/0 đến 500/0 trên thị trường liên quan) thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp phải thông báo cho cơ quan QLCT trước khi tiến hành sáp nhập, hợp nhất và mua lại. Sau khi được cơ quan QLCT trả lời bằng văn bản rằng hoạt động trên không thuộc trường hợp bị cấm thì doanh nghiệp mới được tiến hành các thủ tục sáp nhập, hợp nhất và mua lại .theo pháp luật doanh nghiệp (Khoản 3 Điều 152, Khoản 3 Điều 153 Luật Doanh nghiệp; Điều 20 và 24 Luật Cạnh tranh).
  • Nếu thuộc trường hợp bị cấm (công ty hợp nhất, công ty nhận sáp nhập có thị phần trên 50% trên thị trường liên quan), đương nhiên không được tiến hành bất cứ thủ tục gì, trừ khi được miễn trừ ( Điều 152 và 153 Luật Doanh nghiệp; Điều 18 Luật Cạnh tranh).

Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp cũng có các quy định hỗ trợ cho quá trình kiểm soát tập trung kinh tế đối với hành vi sáp nhập, hợp nhất và mua lại doanh nghiệp, như sau:

  • Các quy định về nghĩa vụ thông báo bằng văn bản tiến độ góp vốn của công ty TNHH, thông báo tiến độ góp vốn cổ phần của công ty cổ phần (điều 39, 84 Luật doanh nghiệp).
  • Nghĩa vụ đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh về việc có cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cố phần trở lên (điều 86 Luật doanh nghiệp). . .
  • Những quy định trên không chỉ tạo điều kiện cho việc quản lý doanh nghiệp mà còn có thể cung cấp nhiều thông tin cần thiết để xác minh hiện tượng tập trung kinh tế được thuận tiện, nhanh chóng.