Trách nhiệm nuôi con được sinh ra trong ống nghiệm sau ly hôn
23/06/2016Hôn nhân vốn dĩ luôn ẩn chứa những vấn đề mà chỉ có người trong chính hoàn cảnh đó mới có thể cảm nhận được bởi “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Và quả thực, chẳng có một cuốn truyện cổ tích đẹp đẽ nào tồn tại suốt trong đời sống hôn nhân mà ở đó có vô số chuyện đời thường từ buồn vui đến hạnh phúc, đau thương. Nhiều gia đình không thể sinh con theo cách thông thường đã nhờ đến y khoa để sinh con bằng cách dùng ống nghiệm, để rồi khi bố mẹ ly hôn, phủ nhận đi mối quan hệ của mình với đứa con ấy để tránh trách nhiệm. Chính vì thế mà pháp luật Hôn nhân và gia đình nước ta đã có nhiều quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi của đứa trẻ trong trường hợp này.
Xác định quan hệ của cha mẹ với con được sinh ra trong ống nghiệm
Vấn đề xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định cụ thể tại Điều 93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như sau:
- Trong trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này.
- Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra.
Ngoài ra, Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
- Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
- Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được tòa án xác định.
Xử phạt hành chính và cả hình sự nếu bố mẹ không chịu cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn
Từ quy định xác nhận quan hệ của cha mẹ với con được sinh ra bằng ống nghiệm ở trên, nếu như cả bố và mẹ không chứng tỏ được đó không phải là con mình mà từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn sẽ bị xử phạt. Tùy theo mức độ mà có thể truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể như sau:
1. Xử phạt hành chính
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự,… không quy định trực tiếp biện pháp xử phạt đối với hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng. Song hành vi này được quy định chung tại điểm a khoản 3 Điều 52 Nghị định 110/2013/NĐ-CP. Theo đó, hành vi “Không thực hiện công việc phải làm ... theo bản án, quyết định” của tòa án có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đến 5.000.000 đồng trong trường hợp đã có bản án, quyết định của tòa buộc 1 người phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
2. Trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009): “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
Tất cả những quy định trên đều nhằm mục đích chung là bảo vệ quyền lợi của đưa trẻ, giúp chúng giảm bớt tổn thương sau cuộc tan vỡ hôn nhân gia đình của bố mẹ gây ra.