Tội Hiếp dâm

27/11/2017  

Quy định của Bộ Luật hình sự 2015 về Tội Hiếp dâm.

>>Xử phạt như thế nào đối với hành vi môi giới mại dâm?

>>Mở quán cà phê để buôn trẻ em làm gái mại dâm

Điều 141 – Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về Tội hiếp dâm như sau:

“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

c) Nhiều người hiếp một người;

d) Phạm tội 02 lần trở lên;

đ) Đối với 02 người trở lên;

e) Có tính chất loạn luân;

g) Làm nạn nhân có thai;

h) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

i) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;

k) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;

d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội này được thể hiện qua một trong các hành vi sau đây:

Thứ nhất: Có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực. Việc sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực là nhằm uy hiếp vô hiệu hoá khả năng kháng cự của nạn nhân (tức làm tê liệt sự kháng cự của nạn nhân) để giao cấu với họ nhưng không được sự chấp thuận của họ (tức trái với ý muôn của họ).

Ví dụ: Người phạm tội dùng vũ lực trói, bịt miệng nạn nhân làm nạn nhân không thể kháng cự được để giao cấu với nạn nhân.

Thứ hai: Có hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác để giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ.

Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân được hiểu là tình trạng nạn nhân có những nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần (như bị què, cụt chân, bị tâm thần…) không có khả năng kháng cự lại việc giao cấu của người phạm tội. Trong trương hợp này người phạm tội không rihất thiết phải sử dụng vũ lực đe doạ hoặc dùng vũ lực vẫn có thể giao cấu được với nạn nhân (nhưng trái với ý muốn của nạn nhân).

Thứ ba: Có hành vi dùng thủ đoạn khác để giao cấu với nạn nhân. Được hiểu là các thủ đoạn (ngoài các hành vi nêu ở trên) của chính người phạm tội thực hiện làm cho nạn nhân không biết hoặc rơi vào tình trạng không có khả năng nhận thức tạm thòi như cho nạn nhân uông thuốc mê, thuốc kích dục, cho uống rượu say… để giao cấu vái nạn nhân mà không được sự đồng ý của họ.

Một số lưu ý:

–  Người bị hại phải là người từ đủ mười sáu tuổi trở lên. Trường hợp người bị hại dưới 16 tuổi thì không cấu thành tội này mà cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142)

–  Trường hợp hiếp dâm mà kèm theo việc giết nạn nhân hoặc gây thương tích cho nạn nhân với mức độ thương tích nhất định thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.

–  Giao cấu là “giao tiếp bộ phận sinh dục ngoài của giống đực với bộ phận sinh dục của giống cái ở động vật”(Theo từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển ngôn ngữ xuất bản năm 1992).

–  Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều bị coi là hành vi hiếp dâm (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định ở Điều 142 Bộ luật Hình sự).

–  Người phạm tội thuộc trường hợp qui định ở khoản 1 Điều 111 Bộ luật Hình sự chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người bị hại có yêu cầu khởi tố hình sự. Nếu trước ngày mở phiên toà sơ thẩm, người bị hại rút đơn yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ.

Khách thể:

Hành vi phạm tội nêu trên xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự của nạn nhân, xâm phạm đến sức khoẻ (gồm sức khoẻ về thể chất và sức khoẻ về tinh thần), gián tiếp xâm phạm tính mạng của nạn nhân (làm nạn nhân chết hoặc tự sát).

Mặt chủ quan:

Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.

Lỗi cố ý là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

Từ định nghĩa trên này có thể rút ra những dấu hiệu của lỗi cố ý:

- Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và thấy trước hậu quả của hành vi đó. Cụ thể là nhận thức được tính chất gây thiệt hại cho xã hội của hành vi đang thực hiện trên cơ sở nhận thức những tình tiết khách quan của nó. Những tình tiết đó có thể là mặt thực tế của hành vi, là đặc điểm của đối tượng tác động của tội phạm, là những điều kiện khách quan như công cụ, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội,…

- Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh. Điều đó có nghĩa hậu quả của hành vi phạm tội mà người phạm tội đã thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích – phù hợp với sự mong muốn của người đó.

Chủ thể: Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.

Về hình phạt: Mức hình phạt của tội này được chia thành bốn khung, cụ thể như sau:

+ Khung một (khoản 2)

Có mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Được áp dụng đối vối trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan.

+ Khung hai (khoản 2)

Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

–  Có tổ chức (xem giải thích tương tự ở tội giết người).

–  Đối với ngưòi mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh (như thầy giáo đối với học sinh, thầy thuốc đối với bệnh nhân).

–  Nhiều người hiếp một người (nếu không thuộc trường hợp có tổ chức). Được hiểu là trường hợp có từ hai người trở lên hiếp dâm một người. Cũng được coi là nhiều người hiếp dâm một người trong trường hợp có hai người trở lên bàn bạc với nhau là tất cả sẽ thay phiên nhau hiếp dâm một người, nhưng quá trình thực hiện tội phạm thì chỉ có một hoặc một số người đã thực hiện hành vi hiếp dâm (đây là dạng trường hợp đồng phạm giản đơn).

–  Phạm tội nhiều lần. Được hiểu là trường hợp có từ hai lần phạm tội trở lên mà mỗi lần phạm tội này có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội hiếp dâm. Đồng thời trong các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và còn trong thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự.

–  Đối với nhiều người (tức từ hai người bị hại trở lên).

–  Có tính chất loạn luân (nghĩa là hiếp dâm đối với người cùng dòng máu về trực hệ hoặc người có quan hệ ruột thịt như anh, chị, em cùng cha, mẹ, với anh, chị,- em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha).

–  Làm nạn nhân có thai (phải có giám định của cơ quan y tế chuyên môn).

–  Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.

–  Tái phạm nguy hiểm (xem giải thích tương tự ở tội giết người).

+ Khung ba (khoản 3)

Có mức phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau:

–  Gầy tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.

–  Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.

–  Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

–  Khung bốn (khoản 4)

Có mức phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Được áp dụng trong trường hợp hiếp dâm đối với người chưa thành niên từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi.

Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Công ty luật Hợp danh The Light hoạt động với tiêu chí "vì một thế giới công bằng" sẽ cung cấp cho bạn thông tin mới nhất về bộ luật hình sự hiện hành. Mọi thắc mắc xin vui lòng liên hệ: 1900 0069 để được các luật sư tư vấn cụ thể.

Theo The Light