Tìm hiểu về đàm phán và sở hữu trí tuệ trong TPP

26/01/2016  

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một trong những lĩnh vực đàm phán quan trọng trong khuôn khổ các đàm phán FTA gần đây. Luật về sở hữu trí tuệ cũng là một trong những chủ đề lớn trong đàm phán TPP, một hiệp định được cho là “thế hệ mới”, “tiêu chuẩn cao” giữa 12 nước trong đó có những nước phát triển ở mức độ cao như Hoa Kỳ, Nhật Bản, phát triển ở mức độ vừa phải như Ôxtraylia, Canada, Mexico, Newzealand, Singapore, Brunei, Chi lê và cả các nước đang phát triển như Malaysia, Peru, Việt Nam. Các công ty tư vấn pháp luật cho các doanh nghiệp, công ty trong lĩnh vực sáng tạo, phát minh kỹ thuật, có sản phẩm độc quyền cần xem xét kỹ về vấn đề này

Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, các thành viên tham gia đàm phán TPP chủ yếu xoay quanh những vấn đề sau:

  • Quyền tác giả và quyền liên quan

Trong các bản đề xuất của Hoa Kỳ, cũng như trong bản dự thảo mới nhất về chương sở hữu trí tuệ mà wikileaks đã tiết lộ trong thời gian gần đây đã đưa ra quan điểm kéo dài thời hạn bảo hộ và mở rộng phạm vi bảo hộ bản quyền. Về thời hạn bảo hộ, Mỹ đòi kéo dài lên rất cao, bằng cuộc đời tác giả cộng với 70 năm, nếu không tính theo cuộc đời tác giả thì hạn này sẽ là 95 năm sau khi công bố và không quá 120 năm.  Phạm vi quyền cũng được mở ra rất rộng, và thậm chí đối với những hành vi không phải là xâm phạm quyền, ví dụ như các hành vi xâm phạm vào công nghệ bảo vệ tác phẩm, hoặc xâm phạm vào các thông tin quản lí quyền, hay các nhà cung cấp dịch vụ cũng bị đặt trách nhiệm rất lớn. Trên thực tế, trong mọi trường hợp, dù ở các nước phát triển hay đang phát triển, việc gia tăng bảo hộ về bản quyền (phạm vi quyền càng rộng, thời hạn thực thi quyền càng dài) chỉ có lợi cho tổ chức, cá nhân chủ sở hữu trong khi lợi ích của cộng đồng trong việc tiếp cận nhanh chóng và với chi phí hợp lí/miễn phí các tác phẩm đều giảm đi.

  • Bằng sáng chế

Cũng giống như vấn đề bản quyền, các quốc gia tham gia đàm phán yêu cầu kéo dài thời hạn bảo hộ. Nếu như thủ tục đăng kí sáng chế, thủ tục đăng kí thuốc, hay thủ tục đăng kí các sản phẩm hoá chất nông nghiệp bị chậm trễ, họ đề nghị rằng không cho phép các quốc gia có thủ tục phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ trước khi văn bằng bảo hộ được câp, để tạo điều kiện cho văn bằng bảo hộ được cấp thật nhanh.

Bên cạnh đó, các quốc gia còn yêu cầu mở rộng phạm vi các đối tượng có thể được bảo hộ Bằng sáng chế. Cụ thể, Mỹ yêu cầu mở rộng phạm vi bảo hộ sáng chế với cả những phương pháp phòng và chẩn đoán bệnh, điều trị hay phẫu thuật vốn trước nay được phép tự do học hỏi, áp dụng lẫn nhau. Ngoài ra, nội dung đàm phán về sở hữu trí tuệ trong TPP không chỉ yêu cầu bảo hộ những phương pháp sử dụng mới mà còn phải bảo hộ công dụng mới của những sản phẩm đã biết. Tất cả những đối tượng này là những đối tượng nằm ngoài phạm vi bảo hộ của WTO cho phép.

Hạ thấp các tiêu chuẩn, điều kiện để được bảo hộ Sáng chế cũng là vấn đề quan trọng được đặt ra trong các vòng đàm phán. Đối với tiêu chuẩn bảo hộ, các nước đưa ra những định nghĩa về tiêu chuẩn bảo hộ giống như quy định của pháp luật quốc gia họ, mà có thể nói rằng tiêu chuẩn bảo hộ của Mỹ thuộc loại thấp nhất thế giới.

  • Chỉ dẫn địa lí và nhãn hiệu thương mại

Theo nội dung của bản đề xuất, Hoa Kỳ yêu cầu bảo hộ chỉ dẫn địa lý tương tự hoặc dưới hình thức nhãn hiệu thương mại.

Chỉ dẫn địa lí đã và đang là một đối tượng sở hữu trí tuệ đặc thù, đặc trưng bởi việc chúng không thuộc sở hữu của cá nhân hay chủ thể pháp luật riêng biệt nào mà thuộc về cộng đồng, chúng không chỉ gắn với lợi ích kinh tế mà là một phần quan trọng của đời sống văn hoá, tinh thần của cộng đồng. Bảo hộ chỉ dẫn địa lí như bảo hộ nhãn hiệu thương mại (đặc biệt với nguyên tắc – ai đăng kí trước thì được hưởng quyền) thì có nguy cơ chỉ dẫn địa lí của vùng miền sẽ thuộc về những người đăng kí trước. Bởi, nếu cá nhân, tổ chức đăng kí chỉ dẫn địa lí dưới dạng nhãn hiệu thì họ hoàn toàn có thể chống lại các chỉ dẫn địa lí khác. Các nước như Mỹ, Ôxtraylia, Newzealand không có một cơ chế riêng để bảo hộ chỉ dẫn địa lí mà họ bảo hộ chỉ dẫn địa lí dưới danh nghĩa nhãn hiệu, nên trong khi đàm phán các nước này yêu cầu phải công nhận thủ tục đăng kí chỉ dẫn nhãn hiệu là một cơ chế đầy đủ để đăng kí chỉ dẫn địa lí. Còn thủ tục riêng về chỉ dẫn địa lí thì không bắt buộc nhưng đòi hỏi nếu như có thủ tục thì phải đơn giản giống như thủ tục đăng kí nhãn hiệu.

Về nhãn hiệu thương mại, các quốc gia yêu cầu mở rộng đối tượng bảo hộ nhãn hiệu, không chỉ bảo hộ nhãn hiệu nhìn thấy được mà cần phải bảo hộ nhãn hiệu không nhìn thấy được như nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi v.v…

Kết

Tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ là một yếu tố quan trọng nhằm tránh tranh chấp, phải đưa nhau ra tòa. Doanh nghiệp có thể không biết, không rõ đối tượng này thuộc quyền sở hữu của ai, nhưng nếu không thuộc của mình thì việc sử dụng, áp dụng một cách miễn phí là xâm phạm quyền của chủ thể khác, do đó các công ty cần có các luật sư tư vấn pháp luật hỗ trợ rõ ràng về vấn đề này.