Luật cạnh tranh làm khó cho các thương vụ mua bán doanh nghiệp

07/12/2015  

Đứng trước cơ hội thương mại lớn từ những hiệp định TPP, FTA, doanh nghiệp Việt Nam đang có thêm động lực để đẩy nhanh hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) nhằm tăng thêm sức cạnh tranh. Tuy nhiên, những quy định về mua lại doanh nghiệp, hay quản lý về tập trung kinh tế thông qua vấn đề thị phần của Luật Cạnh tranh 2004, lại đang làm khó không ít doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động này.

Khó trong xác định thị phần

  • Theo Luật Cạnh tranh 2004, tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh giữa các doanh nghiệp và các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định. Trong trường hợp tập trung kinh tế mà thị phần của các doanh nghiệp nhỏ hơn 30% thì các doanh nghiệp được tự do thực hiện. Trong trường hợp thị phần kết hợp lớn hơn 30% cho tới dưới 50% thì các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế phải có thông báo lên cơ quan quản lý cạnh tranh.
  • Luật Cạnh tranh quản lý về tập trung kinh tế thông qua thị phần, trong đó nghĩa vụ xác định thị phần thuộc về doanh nghiệp. Trước khi hoạt động tập trung kinh tế xảy ra, doanh nghiệp phải thu thập thông tin, tìm hiểu thông tin không chỉ thị phần của mình mà còn của đối thủ tham gia cạnh tranh. Mặc dù đã có Tổng cục Thống kê cung cấp các thông tin về thị trường nhưng những thống kê đó không đi sát vào mảng thị trường nhỏ, vào những giao dịch mua bán, sáp nhập mà các bên quan tâm. Hiện nay, không hề có hệ thống báo cáo hay khảo sát hoàn chỉnh nào được công nhận rộng rãi, được cập nhật thường xuyên về thị phần, lĩnh vực sản xuất kinh doanh thương mại hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế Việt Nam, do vậy gây ra không ít khó khăn cho doanh nghiệp.
  • Quy định về thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả, cũng khiến doanh nghiệp mơ hồ khi xác định thị phần, có thể làm kéo dài thời gian chuẩn bị giao dịch, thậm chí là làm cho các giao dịch không thực hiện được. Bởi ngay cả cơ quan chức năng cũng gặp khó khăn trong quá trình tính toán xác định thị phần liên quan hay thị phần kết hợp nhiều doanh nghiệp tập trung kinh tế.

Nhiều quy định mơ hồ

  • Quy định liệt kê về những hành vi tập trung kinh tế tại Luật Cạnh tranh còn khá mơ hồ, “các hành vi tập trung kinh tế khác” là những hành vi như thế nào, hiện vẫn chưa rõ. Thực tế, theo báo cáo về tập trung kinh tế của Cục Quản lý cạnh tranh, đã từng có dự án của 3 tổ chức vận tải chỉ kí hợp đồng hợp tác vận tải nhưng không thành lập pháp nhân vẫn phải báo cáo thị phần tới cơ quan có thẩm quyền. Vậy, hành vi tập trung kinh tế khác có thể hiểu là việc kí hợp đồng mà không thành lập pháp nhân được hay không? Rõ ràng, nếu không có quy định chi tiết thì việc kí hợp đồng giữa các bên rất dễ bị coi là hành vi tập trung kinh tế, như vậy sẽ không phù hợp với mục tiêu của Luật Cạnh tranh.
  • Điều 35 Nghị định 116/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh đã đưa ra những trường hợp ngoại lệ, đó là doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức tín dụng mua lại doanh nghiệp khác nhằm mục đích bán lại trong thời hạn dài nhất là 1 năm không bị coi là tập trung kinh tế nếu doanh nghiệp mua lại không thực hiện quyền kiểm soát hoặc chi phối doanh nghiệp bị mua lại, hoặc thực hiện quyền này chỉ trong khuôn khổ bắt buộc để đạt được mục đích bán lại đó. Tuy nhiên, chính vì những quy định mù mờ với định nghĩa chưa đầy đủ về mua lại trong Luật Cạnh tranh, đã gây ra không ít khó khăn cho doanh nghiệp bảo hiểm, tín dụng.
  • Theo Khoản 3 Điều 17 Luật Cạnh tranh, mua lại doanh nghiệp là việc doanh nghiệp mua lại toàn bộ hoặc một phần tài sản khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp bị mua lại. Thế nào là kiểm soát và chi phối toàn bộ hoặc một phần ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp bị mua lại, hiện vẫn chưa rõ.